Bằng nhiều hình thức xúc tiến thương mại, đầu tư, thành phố không chỉ giúp các doanh nghiệp tìm được cơ hội hợp tác đầu tư, mà còn giúp các doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bằng nhiều hình thức xúc tiến thương mại, đầu tư, thành phố không chỉ giúp các doanh nghiệp tìm được cơ hội hợp tác đầu tư, mà còn giúp các doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thời gian qua, công tác quản lý xuất khẩu lao động cũng được chú trọng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Theo đó, Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐTB&XH) vừa công bố quyết định xử phạt đối với 3 doanh nghiệp xuất khẩu lao động vì vi phạm quy định của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Trong 3 công ty bị xử phạt, Công ty cổ phần Cung ứng xuất khẩu lao động công thương Hà Nội bị xử phạt mức cao nhất với số tiền 112,5 triệu đồng, do chuẩn bị nguồn lao động đi làm việc tại Nhật Bản khi chưa có văn bản chấp thuận của Bộ.
Trước đó, Bộ LĐTB&XH cũng đã thu hồi giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với Công ty cổ phần Da giày Việt Nam. Công ty này bị thu hồi giấy phép do không bảo đảm điều kiện về ký quỹ, số lượng nhân viên nghiệp vụ, cơ sở vật chất và trang thông tin điện tử đáp ứng quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Trong năm 2023, nhằm lành mạnh hóa thị trường xuất khẩu lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, Bộ LĐTB&XH đã thanh tra, kiểm tra, xử phạt và đình chỉ hoạt động nhiều doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
VTV.vn - Thỏa thuận hợp tác giữa Trung tâm lao động ngoài nước của Bộ LĐTB&XH với Công ty Vivantes (Đức) vào tháng 4/2016 đã mở ra cơ hội nghề nghiệp mới cho người lao động Việt.
(Tapchitaichinh.vn) Theo Bộ Công Thương, trong 8 năm qua (2011 - 2018), thị trường xuất khẩu đã được mở rộng cả về quy mô thị trường và cơ cấu thị trường xuất khẩu, mặt hàng xuất khẩu đã góp phần rất quan trọng vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Cụ thể, về quy mô thị trường xuất khẩu, giai đoạn 2011 - 2018 là giai đoạn tăng trưởng vượt bậc về kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu; trong đó tăng trưởng xuất khẩu đã vượt mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu trong 8 năm qua đã tăng gấp 2,51 lần, từ 96,91 tỷ USD năm 2011 lên 243,48 tỷ USD vào năm 2018. Việt Nam đã nhanh chóng cải thiện vị thế để chiếm thứ hạng cao trên bản đồ xuất - nhập khẩu thế giới. Nếu như năm 2007, Việt Nam đứng thứ hạng 50 thì đến 2017, đã vươn lên vị trí thứ 27 về xuất khẩu.
Xét về quy mô thị trường xuất khẩu, nếu năm 2011 chỉ có 24 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (trong đó có 3 thị trường trên 10 tỷ USD) thì đến năm 2018, có 31 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (trong đó, 4 thị trường đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD, 7 thị trường trên 5 tỷ USD).
Trong giai đoạn 2011 - 2018, hàng hóa Việt Nam đã tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống và mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới. Tính đến nay, hàng hóa của Việt Nam đã có mặt tại trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Giai đoạn 2011 - 2018, khu vực thị trường châu Á luôn duy trì tỷ trọng khoảng từ 51% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tỷ trọng xuất khẩu vào khu vực thị trường châu Mỹ và khu vực thị trường châu Âu duy trì trong khoảng 20 - 23%. Tỷ trọng khu vực châu Phi và châu Đại Dương thấp hơn so với 3 khu vực còn lại, tổng cộng hai khu vực này đạt khoảng 4%.
Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam là Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), các quốc gia Đông Nam Á, Nhật Bản và Hàn Quốc đều có tăng trưởng cao trong giai đoạn 2011 - 2018. Trong đó, Trung Quốc và Hàn Quốc là hai thị trường có tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhất.
Đáng chú ý, ở tất cả các thị trường mà Việt Nam có ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) đều ghi nhận tăng trưởng vượt trội, thị phần xuất khẩu tại các thị trường trọng điểm được khẳng định. Tăng trưởng xuất khẩu trên nhiều thị trường đạt mức hai con số như xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 41,2 tỷ USD, tăng 16,6% so với năm 2017, xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 24,74 tỷ USD, tăng 13,9%, xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 18,85 tỷ USD, tăng 11,8%, xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt 18,2 tỷ USD, tăng 22,8%.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu tận dụng tốt cơ hội từ cắt giảm thuế quan tại các thị trường có FTA để tăng trưởng. Sau khi Hiiều mặt hàng xuất khẩu tận dụng tốt cơ hội từ cắt giảm thuế quan tại cá)có hiệu lực, với mức thuế suất thuế nhập khẩu về 0%, xuất khẩu điều sang Úc tăng trưởng bình quân đạt 12,9%/năm, thủy sản đạt 6,9%/năm; hồ tiêu xuất khẩu sang Nhật Bản tăng trưởng đạt 12,8%/năm, cà phê đạt 8,0%/năm sau khi Hiệp định VJFTA có hiệu lực; hay hồ tiêu xuất khẩu sang Ấn Độ tăng trưởng đạt 14,3%/năm, thủy sản đạt 12,3% năm sau khi Hiệp định AIFTA có hiệu lực; sau khi Hiệp định Việt Nam - EAEU có hiệu lực, hạt điều xuất khẩu sang Liên bang Nga tăng 59,6%, rau quả tăng 19,9%, dệt may tăng 53,5%...
Cùng với các thuận lợi, hoạt động xuất khẩu còn gặp tương đối nhiều khó khăn. Cụ thể, với nông sản, Việt Nam đã làm tốt công tác đàm phán để nước nhập khẩu cắt giảm thuế nhập khẩu cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (thông qua các Hiệp định FTA). Tuy nhiên, việc đàm phán để được công nhận về quản lý chất lượng, quản lý an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật còn hạn chế.
Do vậy, nhiều mặt hàng dù đã được nước ngoài giảm thuế về 0% nhưng nông sản của Việt Nam vẫn chưa được phép nhập khẩu vào một số thị trường (như sữa, thịt lợn, một số loại rau quả). Những hạn chế, yếu kém nội tại về sản xuất nhỏ, phân tán, mặc dù đã được khắc phục nhiều, nhưng chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế, do đó, chưa đáp ứng được hoàn toàn những nhu cầu của thị trường.
Ngoài ra, các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu chưa phát huy tối đa hiệu quả. Hàng hóa Việt Nam mới đang bước đầu vào được trực tiếp thị trường phân phối ở các nước nhập khẩu. Hoạt động xúc tiến thương mại nói chung chưa được đồng đều và đồng bộ từ khâu sản xuất đến khâu tiếp thị và thâm nhập thị trường.
Việc tiếp cận thị trường để tìm kiếm khách hàng mới và giới thiệu sản phẩm thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ, triển lãm… còn hạn chế. Kinh phí dành cho xúc tiến thương mại còn thấp so với nhiệm vụ duy trì, phát triển thị trường và nhu cầu doanh nghiệp; tỷ trọng so với tổng kim ngạch xuất khẩu thấp hơn mức trung bình của nhiều nước trong khu vực.
Rào cản về ngôn ngữ, khoảng cách địa lý, doanh nghiệp gặp nhiều vấn đề về thủ tục xuất nhập cảnh, nhiều địa bàn không có đường bay thẳng… cũng tác động trực tiếp đến giá cả hàng hóa và vận chuyển nên đã hạn chế xuất khẩu của Việt Nam vào Nga, Đông Âu, châu Phi, Mỹ La-tinh, Tây Á.
Khó khăn về xu hướng bảo hộ, quy định tiêu chuẩn cao tại các thị trường nhập khẩu và khó khăn do sức ép cạnh tranh cũng gây ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu hàng Việt… Cần có các giải pháp đồng bộ để khắc phục những khó khăn kể trên, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt đến rộng hơn các thị trường thế giới.
(BKTO) - Xuất khẩu lao động (XKLĐ) đã và đang phục hồi tích cực. Bên cạnh các thị trường truyền thống, một số thị trường mới, giàu tiềm năng cũng đang rộng mở, hứa hẹn cơ hội đi làm việc ở nước ngoài với thu nhập cao cho lao động Việt Nam.
Thị trường XKLĐ đã và đang phục hồi mạnh mẽ. Ảnh: Internet
Dù đã có sự chuẩn bị trước đó về nguồn lực khi dịch Covid được kiểm soát nhưng Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư và Cung ứng nhân lực Năm Châu - ông Ngô Bá Quyết - không thể ngờ thị trường XKLĐ lại hồi phục mạnh mẽ như vậy.
Từ thị trường Đài Loan đến Nhật Bản, Hàn Quốc đều tăng chỉ tiêu với nhiều lĩnh vực, ngành nghề. Không chỉ tăng chỉ tiêu tuyển dụng mà hầu hết các lĩnh vực đều tăng lương và ưu đãi hơn so với trước kia. Dù vậy, việc tuyển dụng nguồn nhân lực vẫn không đủ cung ứng cho các đơn hàng.
Với lợi thế chi phí xuất cảnh thấp, đơn hàng tốt, thu nhập cao, thậm chí người lao động còn được “nợ” phí xuất cảnh, Năm Châu luôn là cái tên được người lao động chọn lựa. Thế nhưng theo ông Ngô Bá Quyết, riêng tháng 5 và nửa đầu tháng 6, Công ty đã bị mất rất nhiều đơn hàng do không tuyển đủ số lượng lao động như đối tác yêu cầu.
Cung không đủ cầu không chỉ là câu chuyện của Năm Châu mà còn là tình trạng chung của nhiều DN đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài hiện nay.
Chia sẻ về hoạt động XKLĐ 6 tháng đầu năm 2022, ông Nguyễn Gia Liêm - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - cho biết: Sau thời kỳ bùng phát, tình hình dịch Covid-19 đã có nhiều dấu hiệu “hạ nhiệt”, đặc biệt là thời điểm giữa năm 2022. Điều này kéo theo nhiều tín hiệu tốt trong phát triển thị trường lao động ngoài nước.
6 tháng đầu năm, số lượng lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài đạt 51.677 người. Trong đó, thị trường Nhật Bản với nhiều khởi sắc dẫn đầu về số lượng với hơn 32.000 lao động, tiếp đó là Đài Loan (Trung Quốc) với 15.633 lao động, Hàn Quốc là 1.209 lao động.
Thị trường các nước châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore... sau khi mở lại cũng đã có chính sách tiếp nhận lao động với các điều kiện và quy định phù hợp.
Đến thời điểm này, số lượng lao động mà các DN phái cử đã đăng ký tại Cục Quản lý lao động ngoài nước là hơn 80.000 người.
“Năm 2022 sẽ là năm “bội thu” của hoạt động XKLĐ. Điều đáng mừng không phải là số lượng ra nước ngoài làm việc nhiều mà là cả người lao động và DN phái cử đều đã biết chọn những thị trường có nhiều lợi ích như: thu nhập cao, cơ hội học tập tốt” - ông Liêm nhận định.
Dù mục tiêu đưa 90.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài khả năng cao sẽ cán đích song hiện nay, ngoài việc ổn định thị trường lao động truyền thống, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đang từng bước định hướng mở rộng những thị trường mới, tiềm năng như một số nước châu Âu, Australia, Canada... để người lao động có thêm nhiều sự lựa chọn. Đây là những thị trường hứa hẹn mang lại thu nhập cao cho người lao động.
Mới đây nhất là việc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký kết hợp tác với Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia để đưa lao động Việt Nam sang nước này làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp với mức lương có thể lên đến 66 triệu đồng mỗi tháng.
Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là giải pháp quan trọng để phục hồi và phát triển thị trường XKLĐ. Ảnh:Internet
Tuy nhiên, để nâng cao vị thế lao động Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài, các chuyên gia cho rằng, Chính phủ cần có chính sách thu hút, thúc đẩy, phát triển ngành nghề, kỹ năng mà các nước cần thiết trong tương lai hoặc đang hướng tới hiện nay như cơ khí, đóng tàu, kỹ thuật ô tô, điện tử.
Đặc biệt, đối tượng làm điều dưỡng rất cần vì các nước thiếu người hỗ trợ người bệnh trong các nơi điều trị. Nhà nước cũng cần chủ động hỗ trợ DN đưa lao động đi nước ngoài để 3 nhà gồm: Nhà trường, DN và Nhà nước cùng đạt được lợi ích.
Đề cập vấn đề này, ông Liêm cho biết, hiện chúng ta không khuyến khích lao động phổ thông đi làm việc nước ngoài mà khuyến khích lao động có trình độ chuyên môn để đảm bảo thu nhập, môi trường làm việc. Tuy nhiên, nhiều nước vẫn nhận lượng lao động phổ thông nhất định để làm việc đơn giản như giúp việc, chăm sóc gia đình...
Vì thiếu nhân lực, các nước có chính sách cởi mở hơn nhưng vẫn đưa ra yêu cầu đối với lao động nhập cảnh, đó là điều kiện chuyên môn, chứng chỉ nghề, trình độ ngoại ngữ... Chẳng hạn, Nhật Bản đưa ra chính sách lao động đặc định tức là người lao động phải có trình độ chuyên môn, được cấp chứng chỉ, nội dung đào tạo tương đối phù hợp với quy chuẩn nước họ.
Như vậy, các chính sách cũng như yêu cầu về lao động của các nước đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực nâng cao chất lượng nguồn lực, nắm bắt nhu cầu thị trường để tiếp tục phục hồi và phát triển hoạt động XKLĐ trong thời gian tới./.